Trong bài đăng này, chúng ta sẽ xem xét DeFi cho vay, một trong những phân khúc phát triển nhanh chóng và hứa hẹn nhất của không gian tiền điện tử.
Trong vài năm qua, cho vay tiền điện tử – phát hành các khoản vay được hỗ trợ bằng tiền điện tử bằng cách sử dụng tiền điện tử khác làm tài sản thế chấp – đã nổi lên như một trong những lĩnh vực chính trong lĩnh vực tài chính phi tập trung (DeFi). Nhiều giao thức cho vay đã được tung ra với tổng giá trị bị khóa (TVL) đạt 46,8 tỷ đô la vào năm 2021, cho thấy mức tăng trưởng hơn 500% so với cùng kỳ năm ngoái.
Thế chấp
Để phòng ngừa trước sự biến động của thị trường, các khoản vay được phát hành bởi các giao thức cho vay phải được thế chấp quá mức. Có nghĩa là đối với mỗi khoản vay, người đi vay cần phải có tài sản thế chấp có giá trị cao hơn giá trị của khoản vay. Ví dụ: nếu người dùng cần vay một khoản tiền tương đương 100 đô la tiền điện tử, họ phải đặt ít nhất 120 đô la làm tài sản thế chấp.
Thông thường, tỷ lệ thế chấp trên các nền tảng cho vay chính dao động từ 120% đến 150%, tùy thuộc vào sự tăng giá và biến động giá dự kiến.
Nếu một vị thế nợ được coi là có rủi ro – điều thường xảy ra khi vị thế này giảm xuống dưới tỷ lệ thế chấp tối thiểu – thì tài sản thế chấp có thể được thanh lý mạnh mẽ để trang trải khoản nợ chưa thanh toán. Cơ chế thanh lý này giúp cho các khoản vay có thể được thực hiện một cách ẩn danh và không đáng tin cậy.
Việc cấp vốn quá mức giúp giảm thiểu rủi ro mất khả năng thanh toán của giao thức trong trường hợp nhiều người đi vay không trả được nợ đồng thời. **
Những người dẫn đầu
Kể từ khi phân khúc cho vay trở nên nổi bật vào khoảng năm 2020, một số dự án đã nổi lên như những người dẫn đầu không thể tranh cãi của nó, duy trì trạng thái này cho đến thời điểm hiện tại.
Dựa trên dữ liệu TVL của năm 2021, ba giao thức cho vay hàng đầu là Maker, Compound và Aave với TVL ở mức 18,3 tỷ USD, 12,8 tỷ USD và 10,8 tỷ USD và tổng dư nợ lần lượt là 9,1 tỷ USD, 7,7 tỷ USD và 6,5 tỷ USD.
Maker chủ yếu được biết đến với stablecoin phi tập trung lớn nhất, DAI. Trong khi đó, Compound và Aave là các thị trường tiền tệ cung cấp tỷ lệ được điều chỉnh theo thuật toán dựa trên tỷ lệ sử dụng của các nhóm cho vay. Các giao thức này đại diện cho các cách tiếp cận khác nhau để cho vay và đi vay: trong khi giao thức đầu tiên được sử dụng để tạo CDP (Vị thế nợ thế chấp) trên một hợp đồng thông minh và tạo ra một stablecoin, thì giao thức thứ hai tạo ra thị trường tiền tệ cho người cho vay và người vay hay còn gọi là các nhóm mà thông qua đó họ thực hiện gộp- giao dịch ngang hàng.